Một tối tháng tư, trời mưa rả rích!
Đêm nay, trời lại mưa, những cơn mưa dai dẳng của bầu trời Tây Nguyên. Tiếng mưa rơi lộp độp khiến cho L bừng tỉnh lạ thường. Gió thổi, lùa qua ô gió trong căn phòng trại giam B thật đáng sợ. L cảm thấy thật cô đơn, trống trải và dường như, những hình ảnh thân thuộc hàng ngày của vợ anh cứ hiển hiện trong tâm trí, nghĩ đến đứa con bé bỏng của mình còn chưa kịp chào đời, L không thể nào ngủ được. Sát trong góc tường, anh gục đầu xuống, miệng cứ lẩm bẩm 02 từ "Giá như"…!
Đối mặt với mức án 12 năm tù vì phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 131/2014/HSST ngày 29/9/2014 của Tòa án nhân dân thị xã D đã tuyên, Phan M.L giờ đây mới nhận ra cái giá của sự thiếu hiểu biết, coi thường pháp luật là gì. Cũng một đêm mưa của sáu năm về trước, chính L đã tự tay cướp đi hai sinh mạng, không phải ai xa lạ, mà chính là người vợ đồng cam cộng khổ và một sinh linh bé bỏng còn chưa kịp cất tiếng khóc chào đời.
Phan M.L đã có vợ là Lê T.A nhưng lại cùng chung sống với như vợ chồng với hai người phụ nữ khác là L.N.Q và P.K.N tại phòng trọ số 01, nhà trọ N.T, đường DC4, khu phố 3, phường M.P, thị xã D, tỉnh B. Khoảng 20 giờ ngày 04/4/2014, tại phòng trọ, giữa A và L xảy ra mâu thuẫn liên quan đến việc ăn mặc của A. Dẫn đến việc A đề nghị ly hôn. Vì vậy, L dùng tay tát 02 cái vào mặt A thì được N và Q can ngăn. Sau đó, L tiếp tục dùng tay trái nắm tóc, tay phải đấm vào đầu và mặt A 02 cái. Một cái trúng vào gò má, 01 cái trúng vào vùng thái dương bên trái, làm A té về phía sau, đầu đập vào cửa kéo của phòng trọ. Được N và Q can ngăn nên L bỏ ra ngoài ngồi. Một lúc sau thì A kêu đau đầu, chảy máu mũi nên N và Q đưa đi cấp cứu. Đến ngày 09/4/2014 thì Lê T.A đã tử vong tại bệnh viên Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh.
Biên bản giám định pháp y số 619/2014/GĐPY ngày 18/4/2014 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận nguyên nhân chết của A là do chấn thương sọ não, xuất huyết não, tiểu não; hiện, A đang mang thai khoảng 03 tháng.
Ngoài mức án Tòa đã tuyên theo Bản án hình sự sơ thẩm số 131/2014/HSST ngày 29/9/2014; Ngày 01/8/2014, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đã ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) xử phạt Phan M.L vì hành vi phạm chế độ hôn nhân gia đình theo điểm b khoản 1 Điều 48 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (L đã có vợ còn chung sống như vợ chồng với 02 người phụ nữ khác).
Chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt gia đình, với bản tính nóng nảy, ngang tàng mà chỉ trong chốc lát, L đã cướp đi tính mạng của chính người vợ đang mang thai, làm cho các con của mình phải chịu cảnh cảnh mồ côi, không cha, mất mẹ. Mặc dù, nhận thức được hành vi sai trái của mình, L đã chủ động ra đầu thú với thái độ thành khẩn sau khi gây án và giờ đây, hắn thực sự đã biết ăn năn hối cải, dằn vặt với những nỗi đau do chính hắn gây ra; nhưng với mức án mà Tòa án nhân dân thị xã D đã tuyên, thiết nghĩ đây là mức án thích đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của L, không những để nhằm răn đe, giáo dục L trở thành người có ích mà còn mang mục đích cao hơn nữa là phòng ngừa chung cho toàn xã hội./.
Theo quy định tại Bộ Luật hình sự 182 Bộ Luật Hình sự:
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Theo quy định tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
b) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
c) Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn;
d) Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình;
đ) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm d và đ khoản 2 Điều này.